Xu hướng lao động và xã hội Việt Nam 2009-2010

Lực lượng lao động của Việt Nam dự kiến sẽ gia tăng khoảng 1,5%/năm (tương đương với khoảng 738.000 lao động/năm) giai đoạn 2010-2015.
Ngày 23/6, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã công bố báo cáo mới về "Xu hướng lao động và xã hội Việt Nam 2009-2010," cung cấp thông tin và phân tích chuyên sâu về thị trường lao động, xu hướng lao động và bảo trợ xã hội tại Việt Nam trong giai đoạn 2009-2010, trong bối cảnh Việt Nam nỗ lực vượt qua tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

Theo Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Đàm Hữu Đắc, Việt Nam đang chuẩn bị cho kế hoạch năm năm phát triển kinh tế-xã hội, vấn đề quan trọng mà Chính phủ đang quan tâm là các chính sách đầu tư và phát triển, đặc biệt là nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề cho người lao động để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Báo cáo phân tích các diễn biến kinh tế gần đây và các xu hướng thị trường lao động cũng như các vấn đề nghèo và bất bình đẳng; đưa ra bối cảnh cho việc thảo luận các vấn đề thị trường lao động và xã hội ở Việt Nam.

Báo cáo chỉ rõ các cơ hội và thách thức chính đối với Việt Nam trong giai đoạn 2010-2015, nhấn mạnh vào tăng trưởng việc làm, tăng năng suất, tính cạnh tranh và tăng cường diện bao phủ an sinh xã hội; đưa ra một số hàm ý chính sách cho việc xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2015.

Theo báo cáo, lực lượng lao động của Việt Nam dự kiến sẽ gia tăng khoảng 1,5%/năm (tương đương với khoảng 738.000 lao động/năm) trong giai đoạn 2010-2015. Báo cáo ghi nhận đà tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của Việt Nam kể từ năm 2000 song hành cùng với sự chuyển đổi nhanh chóng về cơ cấu.

Việc làm trong nông nghiệp giảm từ 65,3% trong năm 2000 xuống 52,2% năm 2007, do người lao động chuyển dịch sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Mặc dù sự dịch chuyển sang các khu vực có năng suất cao hơn có giúp cho tổng năng suất lao động tăng thêm 5,1% năm, năng suất lao động nhìn chung vẫn khá thấp và chỉ bằng 1/5 năng suất trung bình trong ASEAN và khoảng 1/10 mức năng suất của Singapore.

Thêm vào đó, dù đói nghèo đã giảm mạnh trong thập kỷ qua nhưng cũng đã manh nha những vấn đề xã hội khác như tranh chấp lao động gia tăng, trong khi nhìn chung các biện pháp an sinh xã hội chưa bao phủ tới khu vực phi chính thức với quy mô lớn.

Lực lượng lao động xấp xỉ 46 triệu người vào năm 2007 đóng một vai trò vô cùng quan trọng đói với sự thịnh vượng về kinh tế của Việt Nam, cũng như đối với sự mở rộng khu vực công nghiệp hiện chiếm khoảng 1/5 số lao động.

Tuy nhiên, gần 3/4 tổng số lao động đang làm những việc bấp bênh với tiền công và điều kiện làm việc nghèo nàn, bảo trợ xã hội cũng như pháp lý còn hạn chế. Thực tế, phần lớn lực lượng lao động chưa qua đào tạo nghề cũng góp phần kìm hãm sự phát triển của đất nước.

Một trong những khuyến nghị chính của báo cáo "Xu hướng lao động và xã hội Việt Nam 2009-2010" là Chính phủ cùng với người lao động và người sử dụng lao động cần ưu tiên các biện pháp thúc đẩy năng lực cạnh tranh của đất nước, bao gồm tăng cường các thể chế thị trường lao động, đầu tư phát triển nguồn nhân lực, xúc tiến chất lượng việc làm và mở rộng hệ thống an sinh xã hội.

Báo cáo cũng đưa ra nhiều khuyến nghị chính sách trong đó đặc biệt kêu gọi tăng cường khuôn khổ pháp lý và thể chế, tăng cường đối thoại xã hội, tăng năng suất ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tăng cường hỗ trợ các gia đình ở khu vực nông thôn và những người lao động dễ bị tổn thương nhất, những người chưa được hưởng lợi mấy từ sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam...

Bà Rie Vejs-Kjeldgaard, Giám đốc Văn phòng ILO tại Việt Nam nhận định trong thập kỷ vừa qua, cải cách thị trường và tăng cường hội nhập toàn cầu đã góp phần quan trọng giúp Việt Nam đạt được những thành tựu đáng kể trong công cuộc xóa đói giảm nghèo và phát triển. Tuy nhiên vẫn còn những thách thức về thị trường lao động và xã hội.

Báo cáo này đã nêu bật những lĩnh vực cần phối hợp hành động để hỗ trợ, đặc biệt đối với những nhóm dể bị tổn thương, nhằm tiếp cận cơ hội kinh tế và xã hội.

Báo cáo do Viện Khoa học Lao động và Xã hội (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) thực hiện với sự hỗ trợ của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)./.

Phúc Hằng (TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục